Đã bồi thường cam kết đào tạo khi nghỉ việc nhưng bị ngăn chặn làm việc nơi khác
Đăng lúc: Thứ ba - 15/05/2018 05:02 - Người đăng bài viết: Vũ Văn Toàn
Đã bồi thường cam kết đào tạo khi nghỉ việc nhưng bị ngăn chặn làm việc nơi khác. Hiện tôi có một vấn đề nhờ quý công ty tư vấn, giúp đỡ: Tôi có một hợp đồng lao động với một Liên hiệp Khoa học (là một tổ chức phi Chính phủ) với nội dung tóm tắt như sau: cam kết làm việc tại LH 6 năm từ đầu năm 2015 với quyền lợi là được cấp học bổng đi học cao học. Nếu không thực hiện đúng cam kết thì phải bồi thường gấp đôi số tiền đã được cấp. Tuy nhiên khi chưa chấm dứt hợp đồng với LH thì tôi đã kí một hợp đồng lao động khác với một cơ quan khác (cơ quan Nhà nước). Nhưng trong thời gian này tôi đã thông báo bằng miệng với LH về việc làm việc tại cơ quan khác. Và tôi đã chấp nhận bồi thường số tiền như đã cam kết. Hiện nay LH tại nơi tôi đã làm đưa công văn trình bày sự việc của tôi cùng với bản hợp đồng, bản cam kết mà tôi đã kí với họ lên cơ quan mới của tôi nhằm mục đích để cơ quan mới không cho tôi tiếp tục làm việc. Như vậy thì tôi có được phép làm việc tại cơ quan mới nữa không khi đã bồi thường thiệt hại cho bên Liên hiệp Khoa học và tôi có còn phải chịu những hậu quả gì nữa không? Rất mong quý công ty giúp đỡ. Xin cảm ơn
Theo quan điểm của tôi, nếu anh thực sự đã “bồi hoàn” hợp đồng đúng theo điều đã mà hai bên đã thỏa thuận, thì về nguyên tắc anh có quyền chấm dứt hợp đồng – và không còn bị ràng buộc gì nữa (về quyền và nghĩa vụ) với tổ chức LH.
Vì anh không gửi cho chúng tôi bản hợp đồng lao động, nên chúng tôi không thể đánh giá chính xác hợp đồng lao động giữa hai bên đã chính thức chấm dứt chưa. Tuy nhiên, nếu chưa thì anh nên thực hiện đúng theo qui định tại Bộ luật lao động, nghĩa là báo trước 30 ngày và nêu lý do chấm dứt hợp đồng đúng theo trong phần qui định về quyền “đơn phương chấm dứt hợp đồng” của người lao động – qui định tại điều 37 Bộ luật lao động. (Tôi không muốn và cũng không nên nói rõ hơn, mà anh nên tự nghiên cứu và có lựa chọn phù hợp nhất).
Ngoài ra, tôi trao đổi thêm hai vấn đề sau:
- Trước hết là về “thời hạn” trong bản hợp đồng lao động giữa anh và tổ chức LH. Theo qui định, hợp đồng lao động có hai dạng chính là “xác định thời hạn” và “không xác định thời hạn”. Hợp đồng xác định thời hạn có thời gian từ 12 - 36 tháng. Như vậy, việc LH đưa ra thời hạn 6 năm là quá lâu và không đúng qui định của pháp luật. Nếu có tranh chấp, hợp đồng này sẽ bị tuyên vô hiệu hoặc bị “điều chỉnh” lại tối đa thành 36 tháng.
- Thứ hai, về nguyên tắc, người lao động chỉ có nghĩa vụ bồi thường “chi phí đào tạo” chứ không phải là “số tiền đã được cấp”. Và cũng chỉ bồi thường bằng đúng số tiền đào tạo thôi. Còn việc phải bồi thường “gấp đôi” tuy về nguyên tắc không hẳn là sai, vì là theo sự thoả thuận của hai bên. Nhưng thông thường chỉ đặt ra vấn đề bồi thường khi có thiệt hại thật trên thực tế.
Do vậy, mặc dù có lẽ không ai muốn rắc rối làm gì, nhưng anh nên nói rõ với lãnh đạo LH là hành động có mục đích “ngăn chặn” mà họ đang làm là không đúng luật, có dấu hiệu xâm phạm đời tư. Cũng như việc hai bên ký hợp đồng có hai nội dung như nêu trên là không đúng luật. Tức là không có giá trị pháp lý (chỉ riêng 2 nội dung này). Chúc anh mọi việc tốt đẹp.
.........
Quy định tại BLLĐ (2012)
Điều 37. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động
1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:
a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;
b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;
c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động;
d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động;
đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;
e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;
g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.
2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:
a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này;
b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này;
c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.
3. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.
Vì anh không gửi cho chúng tôi bản hợp đồng lao động, nên chúng tôi không thể đánh giá chính xác hợp đồng lao động giữa hai bên đã chính thức chấm dứt chưa. Tuy nhiên, nếu chưa thì anh nên thực hiện đúng theo qui định tại Bộ luật lao động, nghĩa là báo trước 30 ngày và nêu lý do chấm dứt hợp đồng đúng theo trong phần qui định về quyền “đơn phương chấm dứt hợp đồng” của người lao động – qui định tại điều 37 Bộ luật lao động. (Tôi không muốn và cũng không nên nói rõ hơn, mà anh nên tự nghiên cứu và có lựa chọn phù hợp nhất).
Ngoài ra, tôi trao đổi thêm hai vấn đề sau:
- Trước hết là về “thời hạn” trong bản hợp đồng lao động giữa anh và tổ chức LH. Theo qui định, hợp đồng lao động có hai dạng chính là “xác định thời hạn” và “không xác định thời hạn”. Hợp đồng xác định thời hạn có thời gian từ 12 - 36 tháng. Như vậy, việc LH đưa ra thời hạn 6 năm là quá lâu và không đúng qui định của pháp luật. Nếu có tranh chấp, hợp đồng này sẽ bị tuyên vô hiệu hoặc bị “điều chỉnh” lại tối đa thành 36 tháng.
- Thứ hai, về nguyên tắc, người lao động chỉ có nghĩa vụ bồi thường “chi phí đào tạo” chứ không phải là “số tiền đã được cấp”. Và cũng chỉ bồi thường bằng đúng số tiền đào tạo thôi. Còn việc phải bồi thường “gấp đôi” tuy về nguyên tắc không hẳn là sai, vì là theo sự thoả thuận của hai bên. Nhưng thông thường chỉ đặt ra vấn đề bồi thường khi có thiệt hại thật trên thực tế.
Do vậy, mặc dù có lẽ không ai muốn rắc rối làm gì, nhưng anh nên nói rõ với lãnh đạo LH là hành động có mục đích “ngăn chặn” mà họ đang làm là không đúng luật, có dấu hiệu xâm phạm đời tư. Cũng như việc hai bên ký hợp đồng có hai nội dung như nêu trên là không đúng luật. Tức là không có giá trị pháp lý (chỉ riêng 2 nội dung này). Chúc anh mọi việc tốt đẹp.
.........
Quy định tại BLLĐ (2012)
Điều 37. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động
1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:
a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;
b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;
c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động;
d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động;
đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;
e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;
g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.
2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:
a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này;
b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này;
c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.
3. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.
HÃY GỌI 1900 6280
ĐỂ NGHE LUẬT SƯ TƯ VẤN
Nội dung tư vấn trên website chỉ mang tính tham khảo, cần Luật sư tư vấn chi tiết quý khách vui lòng gọi 1900 6280
Những tin mới hơn
- Đòi bồi thường theo mức lương nào khi nghỉ việc vi phạm thời gian báo trước? (15/05/2018)
- Công ty ra quyết định nghỉ việc sớm 1 tuần so với thời gian báo trước? (15/05/2018)
- Chuyển đổi hình thức các hợp đồng lao động không thời hạn sang có thời hạn? (15/05/2018)
- Điều chuyển và thay đổi công việc của người lao động được thực hiện thế nào? (15/05/2018)
- Công ty có thể kỷ luật khi xin nghỉ việc chỉ báo trước 3 tuần được không? (15/05/2018)
- Sa thải người lao động tự ý nghỉ việc chỉ báo trước 1 ngày được không? (15/05/2018)
- Người khác có thể xin thôi việc cho người lao động trong công ty được không? (15/05/2018)
- Thời gian báo khi muốn nghỉ việc là ngày làm việc hay tính cả ngày nghỉ? (15/05/2018)
- Báo trước 3 ngày khi nghỉ việc hợp đồng lao động không xác định thời hạn đúng hay sai? (15/05/2018)
- Làm đơn nghỉ việc nhưng không cho nghỉ vì lý do không đúng luật thì phải làm gì? (15/05/2018)
Những tin cũ hơn
- Lấy lại tiền ký quỹ khi thời gian thử việc đã kết thúc mà muốn xin thôi việc (15/05/2018)
- Công ty chấm dứt hợp đồng lao động do thay đổi cơ cấu nên giải quyết thế nào? (15/05/2018)
- Có nên kiện công ty khi đã nộp đơn xin nghỉ việc nhưng bị sa thải (15/05/2018)
- Bồi thường phí đào tạo khi nghỉ việc do hợp đồng lao động hết hạn có đúng không? (15/05/2018)
- Xin thôi việc thì bị công ty đòi bồi thường thì mới giải quyết đơn (15/05/2018)
- Bị đòi bồi thường khi công ty không ký hợp đồng lao động và cho nghỉ việc (15/05/2018)
- Tự ý nghỉ để chờ ý kiến theo thời hạn khi đã làm đơn xin nghỉ việc có được không? (15/05/2018)
- Hợp đồng lao động hết hạn gần 3 tháng chưa được ký hợp đồng thì làm thế nào? (15/05/2018)
- Ký hợp đồng dịch vụ hay lao động với nhân viên bảo vệ sắp đến tuổi hưu? (15/05/2018)
- Bị công ty cho nghỉ việc có phải là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động? (15/05/2018)
Trước hết Công ty Luật Bách Dương xin gửi tới quý khách hàng lời chào trân trọng nhất!Với khẩu hiệu "An toàn pháp lý - Nền tảng thành công!" Trong quá trình hoạt động chúng tôi đã nhận được nhiều sự tin tưởng từ các quý khách hàng trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên một số thông tin chi tiết và các loại hình dịch vụ pháp lý được Công ty chúng tôi cung cấp thì không phải khách hàng nào cũng biết đến,...
Chi tiết
Luật này quy định nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án,...
Mẫu Văn Bản
-
Đơn thay đổi ý kiến không đồng ý với kết quả hòa giải của tòa án
-
Mẫu Đơn khởi kiện Đòi tiền đặt cọc thuê nhà
-
Đơn xin ly hôn thuận tình có yếu tố nước ngoài
-
Đơn kiện đòi tiền nợ theo hợp đồng
-
Đơn kiện đòi tài sản và quyền kinh doanh theo giấy phép
-
Đơn kiện đòi tài sản đã cho mượn.
-
Đơn kiện đòi quyền sử dụng đất
-
Đơn kiện đòi nợ theo xác nhận công nợ
-
Đơn kiện đòi lại di sản thừa kế
-
Đơn đề nghị công nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất